Tây Tạng, vùng đất của những điều huyền bí và linh thiêng, được tạo hóa cho sở hữu những thứ độc nhất vô nhị, khiến nó trở nên hấp dẫn và có sức cuốn hút lạ kì. Nơi đây cũng chính là cội nguồn của dược liệu và nền y học dẫn đầu thế giới. Nguồn dược liệu này quý hiếm và đắt đỏ nhất là Đông trùng hạ thảo và Thiên sơn tuyết liên, được ví như “Tiên dược” là tinh hoa của đất báu vật của trời, có công dụng chữa bách bệnh, đã tồn tại trong nhiều ngàn năm giúp con người được trường thọ.

Tây Tạng, những điều huyền bí

Không nơi nào có được những điều lạ thường như Tây Tạng, dường như thời gian đã bỏ quên nơi này cho nên những vùng văn minh khác đã phát triển không ngừng nhưng Tây Tạng vẫn đứng yên không chút bụi trần, vẫn luôn là vùng đất thiêng, trong sạch và không ô tạp, cách biệt với thế giới bên ngoài…

Tây Tạng là vùng đất huyền thoại, có dãy núi Himalaya sừng sững thách thức thời gian, vẫn hiên nganh vươn mình hứng lấy nắng gió của đất trời. Dãy núi cao này là nơi con người đặt chân tới nhiều nhất để chinh phục đỉnh Everest có độ cao vĩ đại 8.848 m so với mực nước biển.

Tây Tạng thiêng liêng với bất kể một tin đồ theo đạo nào, đức tin cao cả này có lẽ là cội nguồn của những điều huyền bí. Niềm tin mãnh liệt đến mức tạo ra nguồn năng lượng cho con người khắp hành tinh, để ai cũng mong một lần đặt chân chiêm bái năm ngôi chùa Phật giáo ôm lấy ngọn núi thiêng Kailash, với những truyền thuyết và huyền bí qua hàng thế kỉ. Họ tin rằng đến với hồ Manasarovar ngay tại núi thiêng Kailash này, ngâm mình trong dòng nước sẽ được tẩy sạch tội lỗi trong quá khứ của họ. Ngọn núi thiêng chưa cho phép một nhà thám hiểm nào đặt chân tới đỉnh cao nhất của nó, đánh bại ý chí kiên cường của nhiều nhà thám hiểm vì nơi nào họ cũng đã chinh phục đỉnh cao nhưng phải đành từ bỏ tại nơi này.

Một hồ nước thông thường chỉ có thể trữ nước và cấp nước và là cảnh quan thiên nhiên xanh mát để ngắm cảnh, thưởng ngoạn, thế nhưng tại Tây Tạng, các hồ nước còn ẩn chứa nhiều điều huyền bí và tâm linh. Các hồ nước này là Lhamo Latso, Namtso và Manasarovar, Hồ Yamdrok. Trong đó, hồ Yamdrok thiêng nhất tại Tây Tạng theo truyền thuyết là hóa thân của Long nữ. Vị thánh nữ này bảo hộ cho người dân Tây Tạng, nếu những ai thành tâm cầu nguyện và chạm tay vào nước Thánh hồ sẽ được tiêu trừ nghiệp chướng từ nhiều đời nhiều khiếp. Hồ Namtso cũng chứa đựng điều linh thiêng và là hồ thánh của Phật tử Tây Tạng.

Không nơi nào mà Tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ đến chính trị quốc gia và đời sống như tại Tây Tạng. Điều này thể hiện rõ nhất qua cung điện Potala, lẽ thường thì là nơi để các vị vua chúa, lãnh tụ sống, làm việc, tiếp tân, tiếp đãi sứ thần, làm các công việc trọng đại quốc gia. Thế nhưng cung điện Potala lại dành không gian chủ yếu cho việc chiêm bái thờ cúng với hơn 10.000 bàn thờ các chư Phật, 20.000 tượng Từ Cung điện Potala nổi tiếng. Tại vùng đất thiêng này còn có ngôi Đền Jokhang được xem là “trái tim của thế giới”, bên trong là bức tượng Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi, khi ông được 12 tuổi. Đó là bức tượng linh nghiệm nhất trong con mắt của người Tây Tạng.

Người dân Tây Tạng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, lòng mộ đạo khiến họ có thể “tam bộ nhất bái”- ba bước vái lạy một lần – hay “nhất bộ nhất bái”- một bước vái lạy một lần. Khi vái lạy người Tạng “ngũ thể nhập địa”- họ phủ phục toàn thân xuống mặt đất thành kính. Và họ cứ bộ hành như thế không biết bao tháng ngày trôi đi, qua bao núi cao đèo sâu để về đến thánh địa Lhasa bái Phật.

Vùng đất Phật Pháp Tây Tạng còn là xứ sở của các vị Đạt Lai Lạt Ma. Nơi đây chứng kiến sự tái sinh hóa thân của các vị Lạt ma và Ban Thiền Lạt Ma đầy huyền bí của Phật giáo Mật tông Tây Tạng. Hóa thân là sự thị hiện của chư Phật, bồ tát và các vị đạo sư giác ngộ trên trần thế để giáo hóa và cứu độ. Khi chết đi, những bậc này có thể lựa chọn tái sinh để tiếp tục công cuộc hoằng hóa còn dang dở. Không chỉ riêng Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma mới tái sinh mà có rất nhiều dòng tái sinh trong cả 4 phái của Mật tông Tây Tạng. Trong đó, dòng tái sinh của Đạt Lai Lạt Ma và Ban Thiền Lạt Ma được thế giới bên ngoài biết đến nhiều nhất vì vai trò lãnh đạo giáo quyền lẫn thế quyền của các vị này. Nếu các Đạt Lai Lạt Ma được xem là hóa thân của Quán Thế âm Bồ tát thì Ban Thiền Lạt Ma được cho là hóa thân của Phật A Di Đà.

Điều huyền bí của Tây Tạng còn ẩn chứa bên trong các Tu viện, nơi thờ tự và truyền bá phật giáo. Tại nơi đây, đã diễn ra việc ướp xác, lưu trữ thi thể các tu sĩ trong các bảo tháp. Và nền y học Tây Tạng thời đó (TK XIV) đã rất tiến bộ nên có thể đạt đến trình độ ướp xác qua hàng bao thế kỷ. Điều lạ thường là những tu viện này không chỉ là nơi thờ Phật mà còn là những tổ chức xã hội phức hợp, hoạt động như trường học, thư viện, phòng khám y tế…và còn hoạt động như những tòa nhà chính quyền địa phương.

Tây Tạng còn được biết đến là tầng thượng của Thế giới hay cực thứ ba bởi ảnh hưởng về địa lý và môi trường đối với khí hậu Trái đất. Là nơi trữ nguồn nước của nhiều dòng sông lớn châu Á và trữ nguồn nước ngọt lớn nhất bên ngoài Bắc Cực và Nam Cực.

Khi được sở hữu những điều độc nhất vô nhị, thì Tây Tạng cũng chịu sự khắc nghiệt nặng nề so với những cực còn lại của thế giới. Đa phần diện tích toàn núi đá nhấp nhô, độ cao quá mức, khiến không khí loãng vì thiếu oxy. Trong năm có những thời điểm nhiệt độ xuống thấp và các đỉnh núi luôn được bao phủ bởi tuyết làm cho Tây Tạng luôn chìm trong lạnh giá và sương. Trong đó có vùng Khả Khả Tây Lý, nhiệt độ lạnh nhất cao nguyên, nằm ở phía Tây bắc Thanh Hải – Thanh Tạng một khu vực bị cô lập, không tìm thấy hoặc tồn tại rất ít sự sống của con người và động thực vật, và có rất ít loài tồn tại được là Linh Dương Tây Tạng. Đổi lại sự khắc nghiệt này, Khả Khả Tây Lý có hệ thống đất ngập nước khổng lồ với nhiều sông, hồ do vùng đất này có hiện tượng tan chảy từ các sông băng. Do cách biệt với bên ngoài nên người Tây Tạng vẫn giữ lối sống du mục hồi thế kỷ thứ VII.

Vùng đất của Dược liệu và nền y học dẫn đầu thế giới

Ngay trên vùng đất thiêng và huyền bí này, thảo dược mọc lên cũng khác các nơi khác. Đông trùng hạ thảo và Thiên sơn tuyết liên là một trường hợp như thế. Nó là loại “Tiên dược” kì diệu, mang sứ mệnh chữa bệnh cứu người. Như một sự đã định, đã là “tiên dược” thì phải trao tay những “Thần y” tài năng về y học và đức độ. Và đúng như ý nghĩa này những tu sĩ của Tu viện Sakyra đã được “chọn mặt gửi vàng” trao tay nguồn dược liệu quý này.

Là những người đầu tiên phát hiện ra nguồn dược liệu quý báu này, những tu sĩ của Tu Viện Sakya bắt đầu hành trình tìm “kho báu” chữa bệnh cứu người. Hàng năm các tu sĩ thường xuất hành đi hái thuốc trên các miền thượng du. Cuộc du hành kéo dài gần 2 tháng. Tại vùng núi non hiểm trở này là nơi chứa đựng kho dược thảo thiên nhiên dồi dào phong phú. Nó là một Bình nguyên bốn bề được bao bọc bằng các sừng núi cao, cách biệt với thế giới bên ngoài, muốn vào đó các tu sĩ phải đi vào những hang đá, mà trước đó chưa từng được biết tới. Các cây thảo mộc mọc trong nhưng bình nguyên này là kết tinh của trời đất đặc biệt không đâu có, và phải mất một quá trình nghiên cứu rất lâu, các y sĩ Tây Tạng mới biết được công dụng của nó. Điều kì lạ và huyền bí là các cây thảo dược mọc trong những bình nguyên này khi đưa ra ngoài trồng thì không thể sống bởi các yếu tố thiên nhiên như: độ cao, khí hậu, các khoáng sản trong lòng đất. Và việc hái những loại thảo dược này cũng không dễ dàng, các tu sĩ phải chờ đúng một thời điểm của năm mới xuất hành đi lấy, đem phơi khô để bào chế các dược chất này thành những bài thuốc để chữa bệnh cứu người. Và chính các Lạc ma y sĩ sau quá trình được huấn luyện rất kỹ về các loại thảo mộc này đã tìm ra được các phương pháp chữa bệnh vô cùng công hiệu mà ngay cả người Tây Phương cũng chưa bao giờ biết đến và đạt được trình độ như thế. Cũng chính từ nguồn dược liệu quý báu này, các y sĩ Lạc ma đã tìm ra giá trị mới trong các phương pháp chữa bệnh, phát triển nền y học Tây Tạng cao hơn các nền văn minh khác tại thời điểm này.

Vì sao những tu sĩ của Tu viện Sakya lại nhận được quyền năng phát hiện và chữa bệnh cứu người từ những loại “Tiên dược” này. Vì chính họ là những người được tiếp thu những tinh hoa về y học, các bộ môn khoa học khác, cũng như đức độ của họ trên con đường tu học.

Về đạo đức thì thời đó, Y học Tây Tạng gắn bó rất mật thiết với Phật pháp nên khái niệm Y đức rất được coi trọng và mang đậm màu sắc tôn giáo. Họ tin rằng khi thầy thuốc phát nguyện cứu khổ chúng sinh, lòng từ bi rộng mở thì những phương thuốc bình thường cũng trở nên hiệu nghiệm hơn rất nhiều so với người giỏi y thuật nhưng tâm địa không thiện. Do đó, đối với thầy thuốc Tây Tạng, trí tuệ và lòng từ bi phải được chú trọng như nhau.

Về tiếp thu những tinh hoa trên con đường tu luyện của các tu sĩ thì đều diễn ra tại Tu viện Sakya. Từ thế kỷ XIV, nơi các Y sĩ Lạc ma theo học, khi đó nó là một trung tâm học thuật lớn và được xem là nơi tiếp nhận mười môn khoa học được truyền tải rộng bắt nguồn từ Ấn Độ. Nơi đây có kho tàng đồ sộ các kinh sách, nơi lưu giữ tạng kinh Phật được viết trên bối (pattra) lớn nhất. Tu viện Sakya cũng là một trong những thánh tích cao nhất của tông phái Sakya, một trong những tông phái lớn của phật giáo tây tạng. Trong suốt thời kỳ này, tu viện Sakya là trụ sở chính trị của Tây Tạng và trong nhiều năm liền, những người đứng đầu Sakya vừa là những vị lãnh đạo tôn giáo vừa là người lãnh đạo thế tục. Với một tu viện chứa đựng những tinh hoa như thế lại gắn liền với chính trị và thế tục, sau quá trình học và thực hạnh đạo hạnh, các tu sĩ nơi này đã hoàn thành sứ mệnh cao quý là cứu được chúng sinh thoát khỏi bể khổ của bệnh tật, nghiệp chướng. Và cũng chính trong môi trường này, tu sĩ đã hấp thụ nhiều tri thức y học cổ của Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp và Trung Quốc, kết hợp với y thuật bản địa hình thành nên một nền Y thuật Tây Tạng vừa phong phú vừa kỳ bí, trong đó có kỹ thuật ướp xác đỉnh cao.

Và chính tu viện này đã hình thành và phát triển nền Y học Tây Tạng thời cổ đại dẫn đầu thế giới, nơi đây có thể điều trị nhiều thứ bệnh bằng dược thảo, mà ở phương Tây phải dùng đến kỹ thuật giải phẫu, chẳng hạn như bệnh viêm ruột dư hoặc chấn thương chỉnh hình. Y học Tây Tạng có khả năng chữa trị những bệnh khác một cách tuyệt vời, mà phương Tây lúc đó chưa có phương pháp điều trị như: viêm khớp và viêm gan, chứng rối loạn trong cơ thể, và một số loại ung thư.

Tiến bộ của Y thuật Tây Tạng còn thể hiện trong giải phẩu, không dùng thuốc mê mà điểm huyệt bệnh nhân, làm tê liệt các giác quan trước khi giải phẩu. Người bị điểm huyệt không biết mình bị mê đi, khi được giải huyệt bệnh nhân thấy khỏe khoắn tỉnh táo như thường. Và phương pháp này đã được tu sĩ Sakya mang đi biễu diễn tại trường y khoa tây phương, một phụ nữ khi chuyển dạ không cần dùng thuốc mê mà dùng kim châm vào các huyệt đạo, sau cuộc vượt cạn họ tỉnh táo và nói chuyện bình thường.